Đà Lạt – xưa và nay
đường Romanik – Germany
The Romanesque Road is extremely popular among German and international visitors. Nowhere else in Germany can you enjoy such a rich Romanesque heritage as in the Saxony-Anhalt of today. The 1,000 km tourist road is shaped like a figure eight and provides a unique opportunity for visitors to marvel at 72 buildings in 60 different places where Romanesque times are brought to life in all their beauty and splendour. A journey along the Romanesque Road will take you to fortified castles, venerable cathedrals and old churches dating from the 10th to 13th century and bearing witness to the times of Christianisation under the union of cross and sword.
Familiarise yourself with the fascinating of the Middle Ages, emperors and kings, the clergy, cloisters and churches, knighthood, nobility and castles, peasants, burghers and artisans. Insights into everyday life and customs, the arts and religion, law and the system of feudal tenure in this epoch, who traces have been handed down in testimonies of Romanesque architecture and art are presented in multi-media and playful settings.
Click the following link to learn more about the many fascinating sites and attractions which dot the northern and southern route.
Orchideen Zauber – Grugapark Essen
Grugapark Essen – 2015
The Botanischer Garten Grugapark is a municipal botanical garden located in the Grugapark at Virchowstraße 167a, Essen, North Rhine-Westphalia, Germany. It is open daily; an admission fee is charged.
The garden was established in 1927 for recreation, teaching, and research. Parts of the garden were destroyed in World War II but gradually rebuilt and re-designed for the Essen Bundesgartenschau of 1965.
In 2015 feiert der Grugapark 50 Jahre Bundesgartenschau, kurz BUGA. Am 29.4.1965 wurde die Bundesgartenschau im Beisein von Bundespräsident Heinrich Lübke eröffnet. Bis zum offiziellen Ende im Oktober 1965 besuchten über fünf Millionen Menschen die Gartenschau.
Der Frühjahrs-Pflanzenraritätenmarkt findet von 25.04 bis 26.04.2015 in Grugapark statt. Pflanzensammler in Deutschland und im nahen Ausland präsentieren in der Orangerie ihre Pflanzen und zum Kauf anzubieten. Der „Pflanzen-Raritätenmarkt“ hat sich seitdem zu einer bundesweit etablierten Veranstaltung entwickelt, die auch Besucher aus dem Ausland anzieht. Bei den Ausstellern handelt es sich neben Besitzern kleinerer Produktionsbetriebe auch um engagierte Privatsammler, die zum Teil über namhafte Sammlungen verfügen.
Mỗi năm Grugapark tổ chức vào mùa xuân và mua thu chợ bán cây , cỏ . Ai củng có thể đem cây mình trồng trong vườn tới bán . Chợ kéo dài hai ngày , thứ bẩy và chủ nhật .
Lisse – Netherlands 2015
The history of Lisse is closely related and similar to the neighboring towns of Hillegom and Sassenheim. Based on a document from 1198 which makes official mention of the town’s name, Lisse celebrated its 800-year anniversary in 1998, although there is an indication that there was already a settlement there in the 10th century.
Lịch sử của Lisse liên quan và tương tự như các thị trấn lân cận của Hillegom và Sassenheim. Dựa trên một tài liệu từ năm 1198 trong đó có đề cập đến chính thức của tên của thị trấn, Lisse tổ chức kỷ niệm 800 năm thành lập vào năm 1998, mặc dù có một dấu hiệu cho thấy có đã là một khu định cư ở đó trong thế kỷ 10.
In the Middle Ages, Lisse was a small settlement; there were only 50 houses in 1500. Because of prolonged warfare (particularly the wars of Charles the Bold and the Eighty Years‘ War), poverty was prevalent. Its population lived from agriculture, animal husbandry, and peat harvesting.
Trong thời Trung cổ, Lisse là một khu định cư nhỏ; chỉ có 50 ngôi nhà trong năm 1500. Bởi vì chiến tranh kéo dài (đặc biệt là các cuộc chiến tranh của Charles the Bold và chiến tranh Tám mươi năm ), trạng nghèo phổ biến. Dân số sống từ nông nghiệp, chăn nuôi, thu hoạch và than bùn.
In the 20th century, the bulb flower business continued to boom, resulting in the establishment of auction and trading houses, large-scale cultivators and cooperatives. Today, Lisse exports bulbflowers in large quantities to over a hundred countries worldwide.
Trong thế kỷ 20, việc kinh doanh hoa củ hành bùng nổ, dẫn đến việc thành lập và kinh doanh nhà bán đấu giá, nhà vuờn quy mô lớn và các hợp tác xã. Hôm nay, Lisse xuất khẩu hoa tulip với số lượng lớn đến hơn một trăm quốc gia trên toàn thế giới.
Located at the centre of the „Dune and Bulb Region“ (Duin- en Bollenstreek), Holland’s flower-growing region, Lisse is also a major tourist attraction. During the spring when the fields around Lisse are in a colourful bloom, hundreds of thousands of local and foreign tourists visit the area. Ironically, the only remaining estate that was not removed for flower cultivation (Keukenhof) became world-famous for its flower displays.
Tọa lạc tại trung tâm của „Dune và Bulb Region“ (Duin- en Bollenstreek), khu vực trồng hoa ở Hà Lan, Lisse cũng là một điểm thu hút du lịch lớn. Trong mùa xuân khi các cánh đồng xung quanh Lisse đang ở trong một nở hoa đầy màu sắc, hàng trăm ngàn du khách trong và ngoài nước tham quan.
Keukenhof also known as the Garden of Europe, is the world’s second largest flower garden following Dubai Miracle Garden. It is situated in Lisse, the Netherlands. According to the official website for the Keukenhof Park, approximately 7 million flower bulbs are planted annually in the park, which covers an area of 32 hectares (79 acres). Keukenhof is open annually from mid-March to mid-May. The best time to view the tulips is around mid-April, depending on the weather.
Keukenhof còn được gọi là vuờn Âu Châu, vườn hoa lớn nhất thứ hai thế giới sau Dubai Miracle Garden. Nó nằm ở Lisse, Hà Lan. Khoảng 7 triệu hoa tulip được trồng hàng năm tại đây, bao gồm trên diện tích 32 ha (79 ha). Keukenhof mở cửa hàng năm từ giữa tháng Ba đến giữa tháng Năm. Thời gian tốt nhất để xem hoa tulip là vào khoảng giữa tháng tư, tùy thuộc vào thời tiết.
Zantedeschia
Hosta
Lilium and Amaryllis
hydrangea
narcissus
tulip
April 2015
Literatur:
1/- Wikipedia
Nước Đức – năm 2015
Hakone Garden – năm 2015
Mấy chục năm trời vang tiếng hảo
Quay đầu muôn sự giấc Nam Kha
Phù thế trăm năm ôm giấc mộng
Nhân sinh muôn việc cũng lòng trời
Rốt cuộc muôn điều hư ảo cả
Thôi luận làm chi mất với còn
Nguyễn Trãi
Thực vậy muôn điều đều hư ảo cả. Mới ngày nào còn sống trên quê hương, nay đã trải qua bao nhiêu tháng ngày tha hương nơi đất khách quê người. Mùa đông nhìn tuyết rơi ngoài trời, tôi cảm thấy tâm hồn lạnh buốt. Sau những ngày làm việc dài lê thê, có những lúc tôi thả hồn trở về dĩ vảng tìm lại quê hương trong ký ức.
Để tưởng nhớ đến nơi chôn nhau, cắt rốn, tôi trồng trong vườn sau nhà tre, trúc, cỏ và lan. Tôi đặt tên là vườn Hakone (Hakone gardens). Sở dĩ tôi đặt tên là Hakone, vì tôi trồng trong vườn cỏ hakone (Hakonechloa macra , Japanese forest grass, hakone grass is a species of flowering plant in the family Poaceae, subfamily Arundinoideae, native to Japan. It is the only known species in the genus Hakonechloa. It is mainly used as an ornamental grass in Japanese style gardens, or to brighten shady areas of the garden. The graceful form tends to soften formal shady areas as well. Solid green leaves are the hallmark of the species. The green form is the fastest grower and tends to be slightly larger than most cultivars, and is mildly sun tolerant though it may burn if not given adequate shade. The foliage tends to be deep bright green and may have orange, red or purple tones to some degree in the fall )
Mùa Hạ và Thu tôi ngắm nhìn những bụi tre, khóm trúc và bụi cỏ đó và mùa Đông-Xuân ngắm những bông lan hài, tôi tưởng như mình đang sống 4 muà ở quê nhà yêu dấu. Nhìn lan hài nở tôi nhớ đến 2 câu thơ cổ:
Đình thụ bất tri nhân khứ tận,
Xuân lai hoàn phát cựu thời hoa
dịch
Cây trong sân không biết là mọi người đã ra đi,
Xuân sang vẫn nở những đóa hoa ngày cũ
March
Hoa tuyết hay hoa tuyết điểm (perce-neige, còn gọi là hoa giọt tuyết, hoa xuyên tuyết , Snowdrop, trong tiếng Hy lạp gála có nghĩa là „sữa“, ánthos có nghĩa là „hoa“).
Nở hoa vào mùa đông, thường trước Xuân phân (20 hay 21 Tháng Ba ở Bắc Bán cầu), tuy nhiên cũng có một số loài nở hoa vào đầu mùa xuân hay cuối mùa thu. Sinh thành trong mùa băng tuyết đang sắp sửa tan và là một trong các dấu hiệu báo xuân về, hoa xuyên tuyết ở phương Tây là biểu tượng của niềm an ủi và hy vọng.
The genus Galanthus is native to Europe and the Middle East, from Spain, France and Germany in the west through to Iran in the east. It has become naturalized in other parts of Europe – Norway, Sweden, Great Britain, Belgium and the Netherlands – as well as in eastern Canada and the United States. Celebrated as a sign of spring, snowdrops can form impressive carpets of white in areas where they are native or have been naturalised. These displays may attract large numbers of sightseers. There are a number of snowdrop gardens in England, Wales, Scotland and Ireland.
Several gardens open specially in February for visitors to admire the flowers. Sixty gardens took part in Scotland’s first Snowdrop Festival (1 Feb–11 March 2007). Several gardens in England open during snowdrop season for the National Gardens Scheme (NGS) and in Scotland for Scotland’s Gardens.
Die Schneeglöckchen (Galanthus) werden häufig als erste Frühlingsboten betrachtet und deshalb auch gerne in Grünanlagen und Gärten gepflanzt. In der Phänologie bedeutet die Erst-Blüte den Anfang des Vorfrühlings.
Galanthus nivalis est en fleur en février-mars. Deux espèces (Galanthus reginae-olgae et Galanthus peshmenii) fleurissent en automne. Certains clones de Galanthus elwesii fleurissent dès les mois de décembre, d’autres sont encore en fleurs au début du mois d’avril.
A mes perce-neige
„Pauvres fleurs, qui germez au soleil des hivers,
Quand son pâle rayon vient féconder la neige,
Allez. J’ai fait de vous un timide cortège,
Pour m’annoncer au seuil du lyrique univers.
„Et j’ai fait un bouquet de vos frêles calices,
Pour les jeter, chétif, dans un monde moqueur ;
Heureux ! s’il peut percer, comme des froids cilices,
La neige de la terre et la neige du cœur.
Maurice SAINT-AGUET
Ich kenn ein weißes Blümchen…
Ich kenn ein weißes Blümchen,
ein Glöckchen zart und fein,
das läutet, das läutet
den lieben Frühling ein.
Es weckt die andern Blumen
und ruft:“Erwacht, erwacht!
Der Frühling ist gekommen
ganz heimlich über Nacht.“
Und als es so gerufen
schließt es die Augen zu.
Nun kommen andre Blumen;
Schneeglöckchen geht zur Ruh.
Verfasser unbekannt
Saffron hay thường gọi là cây nghệ tây. Nghệ tây có thể phát triển cao đến 20–30 cm (8–12 in) và cho ra đến bốn hoa; mỗi hoa gồm ba đầu nhụy màu đỏ thẫm rực rỡ – là phần ngoài cùng của lá noãn.
Crocuses are native to woodland, scrub, and meadows from sea level to alpine tundra in central and southern Europe, North Africa and the Middle East, on the islands of the Aegean, and across Central Asia to Xinjiang Province in western China. The name of the genus is derived from the Greek κρόκος (krokos)
Anemone hepatica is a herbaceous perennial growing from a rhizome in the buttercup family (Ranunculaceae), native to woodland in temperate regions of the Northern Hemisphere.
Lily of the valley, sometimes written lily-of-the-valley, scientific name Convallaria majalis is a sweetly scented, highly poisonous woodland flowering plant that is native throughout the cool temperate Northern Hemisphere in Asia, and Europe.
Camellia japonica (the Japanese camellia) is one of the best known species of the genus Camellia. Sometimes called the Rose of winter, it belongs to the Theaceae family. It is the official state flower of Alabama. There are thousands of cultivars of C. japonica in cultivation, with many different colors and forms of flowers.
In the wild, it is found in mainland China (Shandong, east Zhejiang), Taiwan, southern Korea and southern Japan It grows in forests, at altitudes of around 300–1,100 metres (980–3,610 ft)
cypripedium japonicum
sangunaria canadensis multiplex
[Wikipedia]
Phan Thiết – biển mặn
Một buổi chiều trên bải biển Thương Chánh mắt u buồn nhìn ra biển Đông , người con của Phan Thiết , Trần Thiện Thanh viết tặng cho đất mẹ bài
Ngày xưa không có đường xe hơi chạy thẳng vào Phan Thiết . Bến xe đò Saigon – Phan Thiết, bến xe lửa Mường Mán cách thành phố khoảng 2 cây số , từ đó phải đi xe ngựa vô thành phố . Tôi đi xe ngựa từ bến xe đò về nhà ngoại ở trung tâm thành phố. Quê tôi là ba chử Phan : Phan Thiết , Phan Rí , Phan Rang. Chỉ có nắng , muối và biễn.
Tôi trở lại Phan Thiết , đứng trên bải biển Đồi Dương nhìn ra biển Đông , giòng dỉ vảng cuộn tràn như sóng biển trong tôi.
Anh bây giờ đả về lòng đất mẹ , tôi đứng đây nhớ tới anh và anh Trí.
Những người con của Phan Thiết :
Trần Công Khai , mặc dùng sống xa quê hương , lòng vẩn luôn hướng về quê mẹ.
Trần Công Khai wurde 20.Mai in Phan Thiet geboren.
Nữ sĩ Mộng Cầm, tên thật Huỳnh Thị Nghệ, người tình trong thơ của nhà thơ Hàn Mặc Tử (Nguyễn Trọng Trí ), có bài thơ “ Vịnh Lầu Ông Hoàng “ nói về lầu ông Hoàng và tháp chăm Poshanu trên núi Bài Nài.
Nước nước non non một cõi này
Lâu đài ai dựng tháp ai xây
Sương dầm nắng dãi lờ gan đá
Gió dập mưa dồn tủi phận cây
Tuồng thế tang thương bao lớp sóng
Cuộc đời thành bại mấy chòm mây
Đường lên cõi phúc tìm đâu thấy
Thấy cảnh đau lòng khách tỉnh say.
(Vịnh Lầu Ông Hoàng)
Phan Thiết! Phan Thiết!
...Ôi trời ôi! là Phan Thiết! Phan Thiết!
Mà tang thương còn lại mảnh sao rơi
Ta đến nơi. Nường ấy vắng lâu rồi
Nghĩa là chết từ muôn trăng thế kỉ
Trăng vàng ngọc, trăng ân tình, chưa phỉ!
Ta nhìn trăng khôn xiết ngậm ngùi trăng
Ta vãi tung thơ lên tận sông Hằng,
Thơ phép tắc bỗng kêu lên thống thiết
Hỡi Phan Thiết! Phan Thiết!
Mi là nơi ta chôn hận nghìn thu,
Mi là nơi ta sầu muộn ngất ngư…
Hàn Mặc Tử
Tôi đứng trên núi Bài Nài cạnh tháp Poshanu nhìn xuống cửa sông Cà Ty một buổi chiều lộng gió.
Anh đứng đây trải niềm thương nổi nhớ
Mầu mắt em , hoen ướt mộng ngày xưa
Bờ môi ấy , anh nếm hoài cay đắng
Áo em xanh , anh ưa mầu sóng biển
Tóc em dài uyễn chuyễn cả dòng sông
Anh tìm về , yêu chút nắng qua song
Nhớ hơi thở ngát thơm mùi hoa lạ
Tâm sự buồn , em có biết hay không
Gửi em tơ nắng nhuốm hoài mong
Cho thương nhớ tô men hồng lên má
Giấy học trò em giăng kín tên anh
Ai đưa em vào ngững buổi chiều hoàng hôn
Chiều xuống chậm , ai cài hoa lên tóc
Đêm nay lạnh , trăng sao buồn không mọc
Em không còn , ai nghe chuyện gió trăng
Chuyện một lần thành thần thoại ngàn năm
Cầu xưa đả gẩy nhịp , ngồi khóc mối tình thơ
Rồi đêm nay anh nhìn trăng về núi
Tình chúng mình xin hẹn kiếp lai sinh .
Ông Hồ Lộng Địch , người Quảng Trị , lập gia đình với bà Huỳnh Thị Nghệ ( bà Mộng Cầm ) ở Phan Thiết . Ông là người đầu tiên có phòng thí nghiệm , kiểm định chất lượng nước mắm ở Phan Thiết ở số 80A Trần Hưng Đạo . Nhiều cở sở sản xuất nước mắm ở Đà Nẳng, Quảng Ngải và Phú Quốc đều gởi mẩu ra Phan Thiết để ông kiểm nghiệm và cấp giấy chứng nhận.
Nguyễn Văn Tài , Tuấn Vũ
Tuan Vu, Nguyen Van Tai richtiger Name, wurde 16. Dezember 1959 in Phan Thiet geboren.
Nguyễn Hữu Thiết, nhạc sĩ kiêm ca sĩ. Tôi có lần tới thăm ông ở gần Lăng Lê văn Duyệt.
Nguyễn Hữu Thiết wurde 16. Dezember 1928 in Phan Thiet geboren.
Nước mắm Kiết Thành
Kiết Thành là một trong những thương hiệu nước mắm lâu đời xuất hiện đầu tiên ở Phan Thiết với “lô gô” ba con cua xanh. Người có công tạo nên thương hiệu này là ông Cố Phùng sinh quán tại Phú Yên, vào Bình Thuận lập nghiệp từ cuối thế kỷ 19. Ông Phùng khởi nghiệp từ mái lều làm nước mắm nhỏ ở ven bờ sông Cà Ty thuộc phường Phú Tài ngày nay. Thương hiệu “Kiết Thành – Ba Cua Xanh” bắt đầu trở nên nổi tiếng từ thời ông Phạm Văn Huê và đến ông Phạm Văn Túy thì phát triển mạnh mẽ khắp Sài Gòn, lục tỉnh và xuất bán sang Lào và Campuchia.
Mực một nắng
Vĩnh Hảo , xã Vĩnh Hảo , huyện Tuy Phong , tỉnh Bình Thuận.
Theo truyền thuyết công chúa Huyền Trân vâng mệnh vua Trần Nhân Tông về làm vợ Chiêm Vương , Chế Mân ( Jaya Sinhavarman II ) , năm 1306 , đổi lấy hai châu Ô , châu Lý . Hôn lễ được tổ chức vào tháng sáu năm Bính Ngọ ( niên hiệu Hưng Long thứ 14, năm 1306 ) tại kinh đô Đồ Bàn, Vijaya.
Nước non ngàn dặm ra đi
Mối tình chi
Mượn màu son phấn
Đền nợ Ô, Ly…
Hoàng hậu Paramecvari ( công chúa Huyền Trân ) cùng với Chế Mân đi du ngoạn ở Panduranga . Bên dòng suối tiên thiêng liêng của nguời Chiêm , suối Eamu . Từ ngàn năm xưa, dòng suối Eamu chảy từ dãy núi Tuy Phong thuộc vùng Panduranga của vương quốc Chiêm Thành. Huyền Trân công chúa đã đặt cho dòng sông Eamu một tên mới là Vĩnh Hảo , nghỉa là đời đời tốt đẹp .
Ngày 28 tháng 1 năm 1928 toàn quyền Đông Dương ký nghị định thành lập société d’etudes des eaux minérales de Vinh Hao . Từ suối Eamu mà Huyền Trân công chúa đả đặt tên là Vĩnh Hão. Nước khoáng Vĩnh Hão được gọi là Vichy Đông Dương từ đó.
Chiều nay thương nhớ nhất chiều nay
Thoáng bóng em trong cốc rượu đầy
Tôi uống cả em và uống cả
Một trời quan tái, mấy cho say
Nguyễn Bính
Ngồi dưới chân núi Tuy Phong uống nước suối khoáng Vĩnh Hảo, uống cả lịch sử, tình yêu của những vương triều.
Hotel Đồi Dương
Thanh Long
Phan Thiết là vương quốc của Thanh Long
Quả của thanh long có ba loại, tất cả đều có vỏ giống như da và có một chút lá. Chúng có tên gọi khoa học như sau:
Hylocereus undatus thuộc chi Hylocereus, ruột trắng với vỏ hồng hay đỏ.
Hylocereus polyrhizus thuộc chi Hylocereus, ruột đỏ với vỏ hồng hay đỏ
Hylocereus megalanthus, trước đây được coi là thuộc chi Selenicereus, ruột trắng với vỏ vàng.
Loại ruột đỏ, vỏ hồng lấy giống từ Đài Loan năm 1988, hiện nay mới trồng thử nghiệm tại Lạng Sơn và Phủ Quỳ (tỉnh Nghệ An). Loại ruột trắng vỏ hồng hay đỏ được trồng rộng rãi ở các tỉnh như Bình Thuận, Long An, Tiền Giang.
Phân biệt thanh long đực và thanh long cái:
– Thanh Long đực , là quả nó xuất hiện trực tiếp từ đỉnh sinh trưởng của một nhánh (cành) dây. Quả này không bán được, tỉ lệ xuất hiện của nó trên vườn thanh long khoảng 0.25 – 0.75% tổng số quả trên một lứa.
-Thanh long cái là quả thanh long phát triển bình thường từ một ví trí trên nhánh (cành) dây.
Phân biệt thanh long ruột trắng và thanh long ruột đỏ :
– Thanh long ruột đỏ thì ít tai , đầu tai hơi bầu
– Thanh long ruột trắng thì tai nhiều, đầu tai hơi nhọn
Als Drachenfrucht, auch Pitahaya oder Pitaya genannt, bezeichnet man die Frucht bestimmter aus Mittelamerika stammender Hylocereus- und Selenicereus-Arten aus der Familie der Kakteengewächse. Die Hauptanbauländer sind Nicaragua, die Volksrepublik China, Vietnam und Israel.
Verwendet werden die Früchte folgender Kakteenarten:
Hylocereus undatus mit weißem Fruchtfleisch und pinkfarbener Schale
Hylocereus monacanthus mit rotem Fruchtfleisch und pinkfarbener Schale
Selenicereus megalanthus mit weißem Fruchtfleisch und gelber Schale
A pitaya is the fruit of several cactus species. „Pitaya“ usually refers to fruit of the genus Stenocereus, while „pitahaya“ or „dragon fruit“ always refers to fruit of the genus Hylocereus.
Sweet pitayas come in three types, all with leathery, slightly leafy skin:
Hylocereus undatus (Pitaya blanca or white-fleshed pitaya) has red-skinned fruit with white flesh. This is the most commonly seen „dragon fruit“.
Hylocereus costaricensis (Pitaya roja or red-fleshed pitaya, also known as Hylocereus polyrhizus) has red-skinned fruit with red flesh.
Hylocereus megalanthus (Pitaya amarilla or yellow pitaya, also known as Selenicereus megalanthus) has yellow-skinned fruit with white flesh.
Chùa Phật Ấn
Suối tiên
Fairy Stream , some parts of it feel like a miniature version of the Grand Canyon.
Bàu trắng
Bàu Trắng là một hồ nước ngọt cách thành phố Phan Thiết khoảng 62 km về hướng Đông Bắc, là hồ nước ngọt duy nhất thuộc xã Bình Nhơn, huyện Hòa Đa, tỉnh Bình Thuận, nay thuộc nhất thuộc thôn Hồng Lâm, xã Hoà Thắng, huyện Bắc Bình. (trước đây là thôn Hồng Lâm, xã Hòa Thắng, huyện Bắc Bình.
Dinh Thầy Thiếm
Dinh Thầy Thím hiện tọa lạc tại xã Tân Tiến, thị xã La Gi, tỉnh Bình Thuận. Dinh Thầy Thím có dạng kiến trúc như một ngôi đình làng bao gồm nhiều công trình, như: Tam quan, Võ ca, chính điện, nhà thờ Tiền hiền, nhà thờ Hậu hiền, miếu ông Hổ, miếu Thành hoàng, phòng Truyền thống,v.v…. Trên thanh xà cò của Dinh còn dòng chữ Hán khắc chìm „Kỷ Mão niên thập nhị quạt nhị thập ngũ nhật kiến tạo“ có nghĩa là kiến tạo ngày 25 tháng 12 năm Kỷ Mão (1879).
Chùa Ông
Chùa Ông (tức Quan Đế Miếu) là ngôi miếu cổ nhất của người Hoa ở Bình Thuận, nằm tại phường Đức Nghĩa, thành phố Phan Thiết. Trên thanh xà cò nóc chính diện có khắc dòng chữ Hán „Thiên kiến Canh Dần niên trọng đông kiết tạo“, có nghĩa là „Chùa được thiết lập vào tháng 11 năm Canh Dần“ (1770).
Đình Đức Thắng
Đình này được xây dựng từ những năm đầu thế kỷ 19, khi đó chỉ là một nhà tranh vách đất để nhân dân làm nơi thờ Thành Hoàng làng và hội đồng kỳ mục hội họp. Năm Đinh Mùi (1811), khi đã chuẩn bị đầy đủ vật liệu và tiền bạc thì nhân dân khởi công xây dựng mới ngôi đình trên nền ngôi đình cũ. Nhưng vì đây là ngôi đình có quy mô lớn nhất lúc bấy giờ ở Phan Thiết nên mãi đến năm 1847 thì công việc xây dựng mới hoàn chỉnh, kể cả các công trình phụ. Có tài liệu ở đình Đức Thắng ghi: việc xây dựng đình làng Đức Thắng từ năm Tân Sửu đến Đinh Mùi.
chùa Bà Đức Sanh
Qua các nguồn tư liệu Hán Nôm còn lưu giữ tại chùa, thuở mới tạo lập dưới đời vua Thiệu Trị (1844) Đức Sanh Tự chỉ là một ngôi am nhỏ, đến năm Tự Đức thứ 6 (1853) chính thức xây dựng Đức Sanh Tự kiên cố và tồn tại đến ngày nay. Chùa Bà Đức Sanh thực ra là một ngôi đền thờ các vị nữ thần gắn liền với tín ngưỡng dân gian, phù hộ cho việc mang thai, sinh đẻ và nuôi con của giới phụ nữ.
Hải đăng Kê Gà
Hải đăng Kê Gà (hoặc Khe Gà) ở mũi Kê Gà, thuộc xã Tân Thành, huyện Hàm Thuận Nam (trước thuộc huyện Hàm Tân), tỉnh Bình Thuận. Đây là một ngọn tháp cao thắp đèn dùng cho tàu thuyền giao thông trong khu vực, và đã được trung tâm sách kỷ lục Việt Nam xác nhận là ngọn hải đăng cao nhất và cổ xưa nhất Việt Nam.
Chùa Liên Trì
Hồ Hàm Thuận
Thác Đa Mi
Mộ Nguyễn Thông
Chùa Bà Thiên Hậu
Chùa Phật Quang